Lễ hội Kate của người Chăm ở khu vực Bình Thuận, Ninh Thuận hằng năm được khai diễn vào ngày 1.7 Chăm lịch – thường vào cuối tháng 9 đầu tháng 10 dương lịch. Đây là lễ hội lớn kéo dài trong 3 ngày, với nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ truyền thống Chăm đặc sắc.
Theo truyền thuyết, trong “gia đình Champa” thì người Chăm là chị cả, người Raglai là em út. Em gái út trong gia đình mẫu hệ Chăm sẽ là người cất giữ đồ gia bảo của tổ tiên, vì vậy y phục của các vị thần của người Chăm do người Raglai cất giữ.
Đoàn rước y phục của thần Po Romé lên tháp trong một lễ Kate. |
Vì vậy, ngày đầu tiên của lễ Kate là ngày mà người Raglai rước y phục của các vị thần trở về làng của người Chăm ở khu vực có đền thờ của vị thần đó. Buổi lễ rước và lễ đón y phục của người Chăm diễn ra rất trang trọng, với những hoạt động văn nghệ truyền thống Chăm đặc sắc.
Ngày thứ hai là ngày đặc sắc nhất của lễ hội, với việc những người Chăm rước y phục của vị thần lên đền tháp thờ vị thần đó, và tiến hành tắm rửa cho tượng thần, khoác y phục cho tượng thần, cùng các hoạt động tôn giáo truyền thống khác. Ngày này, những người Chăm địa phương và các vùng lân cận (không có đền tháp) đều tìm về đền tháp, trong những bộ trang phục lễ hội truyền thống đẹp nhất của mình, sắm sửa lễ vật cúng dâng các thần để cầu mong những điều tốt đẹp.
Ngày thứ ba là phần lễ hội ở các làng, các gia đình. Mọi thành viên trong gia đình quây quần bên nhau, cùng cầu mong cho tổ tiên, thần linh phù hộ để con cháu làm ăn phát đạt, gặp nhiều may mắn.
Với các hoạt động lễ hội diễn ra trên các đền tháp cổ kính, lễ Kate đã thu hút rất đông du khách khắp nơi về dự, và ngày nay đã trở thành một lễ hội lớn nhất trong năm của người Chăm.Nhiều người hiện nay lầm tưởng và gọi lê hội Kate là “tết của người Chăm”, tuy nhiên điều đó không đúng.
Lễ đón rước y phục nữ thần Po Nagar từ làng Raglai Phước Hà về làng Chăm Hữu Đức (Nình Thuận) |
Kỳ thực tết của người Chăm (tựa như tết Nguyên đán của người Việt, người Hoa) diễn ra vào ngày đầu tháng 1 Chăm lịch – khoảng tháng 4 dương lịch – và mang tên “Lễ Rija Nưgar” hay lễ hội cầu mưa, tống khứ những điều xui xẻo để đón nhận những điều tốt lành vào đầu năm mới, đón nước cầu mưa để chuẩn bị vào vụ canh tác mới.
Lễ hội Kate trở nên nổi tiếng từ khi nào?
Theo nghiên cứu của ông Po Dharma từ giới tăng lữ Ahier, “Kate là lễ tế Yang Po Amâ, ám chỉ cho đấng Shiva tức là Nam Thần của Bà La Môn Giáo có một vị trí quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng Champa so với thần Vishnu và Brahma … Lễ tế Po Yang Amâ tức là vị Nam Thần không có nghĩa là lễ tế tất cả các vị Nam Thần như một số người thường hiểu lầm”.
Còn theo tín ngưỡng địa phương, Kate là lễ tạ ơn các bậc thần linh đã có công phù hộ cho dân tộc Chăm, đem lại sự an bình và thịnh vượng cho họ.
Đoàn rước y phục thần Po Romé đang tiến lên tháp Po Romé. |
Tuy nhiên, trên thực tế Kate chỉ là lễ tế ba vị thần, đó là Po Klaung Garai và Po Romé qua biểu tượng Mukhalinga (tượng thần Siva có tạc hình mặt 2 vị vua) và Nữ thần Po Nagar (qua biểu tượng của bà Bhagavati, vợ thần Siva), qua các phần nghi lễ cố định như: lễ rước y phục, mở cửa tháp, tắm rửa và mặc trang phục cho tượng thần và dâng lễ vật cho 3 vị thần. Nhân dịp này, người ta cũng không quên tưởng nhớ đến những vị thần khác.
Có lẽ trước kia lễ Kate tế (nữ) thần Po Nagar (Po Inư Nagar) được tiến hành ở tháp Po Nagar tại Nha Trang, nhưng “sau này chuyển đến Phan Rang, vì chiến tranh dưới thời Tây Sơn”– theo Po Dharma trong Kate: Lễ tục của người Chăm Ahier hôm nay.
Ông Po Dharma cũng giải thích rõ rằng, lễ hội là sinh hoạt văn hóa bao gồm nhiều khía cạnh như văn nghệ, thể thao, trò vui… được tổ chức mang tính cách cộng đồng, thường gắn liền với ngày lễ tục của tín ngưỡng hay tôn giáo, và trong hệ thống tín ngưỡng của người Chăm chỉ có lễ tục chứ không bao giờ có lễ hội.
Trước năm 1965, Kate chỉ là một lễ tục trên đền tháp, có sự hiện diện của một số tín đồ người Chăm Ahier, rất là thưa thớt, không có mặt các “khán giả”. Vì theo phong tục, dâng hiến lễ vật cho thần linh trong ngày Kate trên đền tháp không phải là sự bó buộc.
Chuyển y phục của thần Po Romé vào trong tháp. |
Vào năm 1965, ông Dương Tấn Sở lúc đó là quận trưởng quận An Phước đề nghị với các chức sắc Ahier cho phép đưa vào lễ tục Kate phần văn nghệ để đón chào phái đoàn Việt Nam đến viếng thăm dân tộc Chăm nhân dịp Kate. Kể từ đó, lễ tục Kate có thêm phần lễ hội, rồi về sau càng ngày càng phong phú, linh đình và phát triển cho đến hôm nay.
Lễ hội Kate có từ khi nào?
Có nhiều người đặt ra những câu hỏi: lễ hội Kate có từng diễn ra ở Mỹ Sơn không? Tại sao các khu tháp Chăm ở Bình Định không phục hồi lễ hội Kate… Để trả lời những câu hỏi này, phải tìm hiểu xem lễ hội Kate có từ thời gian nào.
Ngược lịch sử, giai đoạn từ thế kỷ XV về trước, vương quốc Champa mang đậm ảnh hưởng của Ấn giáo. Sau thế kỷ XV, có thêm Hồi giáo xâm nhập vào xã hội Champa, và cho đến nay những người Chăm Việt Nam gồm có 3 nhánh tôn giáo chính: người Chăm Ahier (hay Balamon), ảnh hưởng của Ấn giáo; người Chăm Awal (hay Bani), ảnh hưởng của Hồi giáo; người Chăm Islam (một ít ở Ninh Thuận và chủ yếu ở vùng An Giang) theo Hồi giáo chính thống.
Người Chăm bày lễ vật dâng các vị thần ở khuôn viên bên ngoài tháp Po Romé trong một lễ Kate. |
Lễ hội Kate hiện nay chúng ta biết, là lễ hội của nhánh Chăm Ahier.
T.S Trương Văn Món (nhà nghiên cứu văn hóa Chăm Sakaya) trong cuốn Tiếp cận một số vấn đề văn hóa Champa (NXBTri thức, Hà Nội, 2013) cho rằng lễ Kate xuất hiện vào thế kỷ XV, còn T.S Po Dharma cho rằng Kate chỉ xuất hiện sau thời vua Po Romé ở thế kỷ XVII.
T.S Po Dharma trong bài viết Kate: Lễ tục của người Chăm Ahier hôm nay (đăng trên trang tin Champaka.info ngày 20/03/2012) cho rằng: “… tư liệu viết trên bia đá (các bia ký Champa – NV) thường ghi lại những nghi lễ ở vương quốc Champa, nhưng không bao giờ nhắc đến lễ tục Kate”, để chứng minh rằng các vùng phía Bắc Champa (Vijaya, Amaravati, Indrapura) không có lễ tục Kate.
Mặt khác, các bia ký Champa cổ còn lại thể hiện, các vị vua Champa thời trước thế kỷ XV sau khi chết thường được phong thành thần Siva bởi danh xưng của vua kết hợp với hậu tố của thần, ví dụ thần Bhadresvara – vị thần chủ của thánh địa Mỹ Sơn – là danh xưng kết hợp của vua Bhadravarman I (vị vua cho xây đền thờ đầu tiên tại Mỹ Sơn ở thế kỷ IV) với thần Siva: Badra + dresvara.
Chỉ từ thế kỷ XV về sau, các vị vua Champa khi được phong thần mới được gắn tiền tố “Po” (ông/bà/ngài) trước tên, như Po Klaung Garai, Po Romé, Po Klaung Halau, Po Dam, … Đó là sự khác biệt dễ nhận thấy của giai đoạn Champa Ấn giáo (trước thế kỷ XV) và Champa bản địa (sau thế kỷ XV).
Trong bài viết đã dẫn, ông Po Dharma chỉ ra rằng, trong lễ hội Kate người ta tôn vinh thần Po Romé – tức là vua Po Romé được phong thần sau khi chết – nên Kate không thể là sản phẩm của thời trước vua Po Romé.
Về sự tôn vinh thần Po Romé tại lễ Kate, trong cuốn Lễ hội của người Chăm (NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2003) tác giả Sakaya, người Ninh Thuận, cũng ghi nhận điều này khi chép lại bài hát mời thần Po Romé khi hành lễ trên tháp, trong đó có đoạn:
“Nước tràn về đâp vỡ ra
Po Rame hiện về đắp đập giữ nước
Thần Po Rame dẫn nước vào ruộng
Dân làng đón nước về cày cấy …”
Từ những điều nếu trên, có thể giải đáp rằng, lễ Kate chỉ xuất hiện muộn ở khu vực phía nam Champa sau thế kỷ XV, chứ không phải là sản phẩm văn hóa của vương quốc Champa cổ xưa.
Đăng nhận xét